ĐẠO ĐỨC HỌC PHẬT GIÁO

1. Đạo Phật là một thành tựu văn hoá, văn minh đặc sắc, trước hết của dân tộc Ấn, sau đó là của cả nhân loại. Đạo Phật xuất hiện ở Ấn Độ cách ngày nay hơn 2.500 năm, về sau lan toả và phát triển ra khắp các châu lục và hiện đang là “một trong ba tôn giáo lớn của thế giới (Đạo Phật, Đạo Cơ đốc và Đạo Hồi”).

Sinh thời, A. Einstein đã cho rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, xuất phát từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên trong cái nhất thể đầy ý nghĩa, và Phật giáo đáp ứng đủ các điều kiện ấy”.

Không phải ngẫu nhiên mà ngày nay Phật giáo được nhân loại tôn vinh là một tôn giáo có triết lý sống nhân văn, thiết thực nhất và trở thành thứ Đạo được hướng tới trong tương lai. Đạo Phật xuất phát từ hiện thực con người và vì con người, nhằm hướng con người đi đến hạnh phúc an lạc.

Nói một cách vắn tắt, Đạo Phật là con đường giải thoát con người khỏi khổ đau, bất toại nguyện. Tìm hiểu sâu chúng ta sẽ nhận thấy trong toàn bộ giáo lý của Đạo Phật thể hiện một nếp sống đạo đức có những đặc trưng riêng biệt, nổi bật mà con người khi trải nghiệm sẽ nhận ra được chân giá trị đích thực của hạnh phúc.

Đạo đức là một phạm trù được quan niệm không hoàn toàn giống nhau trong các nền văn hoá và trong các thời đại lịch sử. Nó là phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội; là những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đây là quan niệm chung về đạo đức.

Quan niệm đạo đức của Đạo Phật căn bản cũng như vậy. Nhưng có cái khác biệt là nhấn mạnh đến cái thiện ở bên trong, nó là cái gốc của những hành vi, lời nói tốt đẹp thể hiện ra bên ngoài của con người.

“Đạo đức là những khuynh hướng tốt có trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người chung quanh ta được chuyển hoá, an vui, lợi ích”.

2. Đạo Phật là đạo giải thoát chúng sinh khỏi trầm luân khổ ải, bất toại nguyện. Từ góc nhìn này ta thấy Đạo Phật là một loại đạo đức lớn.

Trong tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), nếu phân tích đến cùng sẽ ẩn chứa đạo đức bên trong. Nhưng có lẽ biểu hiện rõ nét và tập trung nhất của đạo đức trong Phật giáo là ở các Giới (Ngũ giới, lục giới và thập giới).

Khi nghiên cứu về đạo đức trong Phật giáo, ta nhận thấy một số điểm nổi bật sau:

Một là: Đạo đức Phật giáo thể hiện rõ ràng, dứt khoát về thiện ác.

Đây là điểm khác biệt với nhiều học thuyết đạo đức học phương Tây. Phương Tây thường nhấn mạnh tính tương đối của thiện ác, coi tiêu chuẩn của thiện ác có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Phật giáo luôn thể hiện sự dứt khoát, minh bạch trong vấn đề này.

Trong Kinh Tăng chi bộ khẳng định thiện và ác phân biệt cách xa nhau như đất với trời, phân biệt rõ nguyên nhân căn bản của ác là tham, sân, si và nguyên nhân căn bản của thiện là không tham, không sân, không si.

Đồng thời Kinh cũng phân biệt rõ kết quả do thiện ác đem lại là hạnh phúc và bất hạnh cho con người ở đời này và đời sau như thế nào. Hình tướng của thiện và ác được phân tích rõ ràng là không sát sinh hay sát sinh, bố thí hay trộm cắp, sống chính hạnh hay là tà hạnh, v.v… cho đến những ý nghĩ thiện hay bất thiện trong tâm hồn cũng được phân tích rõ ràng minh bạch.

Kinh chép: “Có hai tiềm lực trong con người, làm điều thiện hay làm điều ác. Thật có thể từ bỏ điều ác; từ bỏ điều ác đem lại lợi ích và hạnh phúc. Cũng có thể huân tập điều thiện. Huân tập điều thiện cũng mang lại lợi ích và hạnh phúc (đoạn 19)”.

Nếu chúng ta coi trọng tính thực tiễn của học thuyết đạo đức, nghĩa là mọi học thuyết đạo đức đều phải hướng tới việc khích lệ mọi người sống thiện, bỏ ác, thì những chủ thuyết không phân biệt rõ thiện và ác làm sao có thể hoàn thành được mục tiêu này.

Nếu một chủ thuyết tuyên bố thiện là cái không thể định nghĩa thì làm sao có thể khuyến cáo người ta làm điều thiện.

Chính vì vậy mà giáo sư T.W. Rhys Davids đã phê phán đạo đức học phương Tây: “Cho tới nay, việc nghiên cứu đạo đức ở phương Tây đã thất bại thảm hại qua những cuộc bàn cãi lý luận kéo dài và những tư biện trống rỗng cắt đứt mọi thực tế”.

Hai là: Đạo đức Phật giáo có tính liên tục và nhất quán.

Nội dung của thiện ác như chính Đức Phật Thích Ca đã đích thân thuyết giảng, từ ngày Ngài còn tại thế cách đây hơn 2.500 năm và được kết tập trong Kinh tạng Nguyên thủy, nội dung thiện ác đó đã được duy trì một cách liên tục nhất quán cho đến nay, hầu như không thay đổi gì kể cả trong thời kỳ Phật giáo bộ phái và Phật giáo Đại thừa.

Nội dung của năm giới, mười điều thiện đến nay, vẫn không thay đổi mặc dù Phật giáo đã phát triển qua một thời gian dài và trở thành một tôn giáo thế giới, có mặt ở hầu hết các nước trên hành tinh này.

Sự phân biệt thiện ác của đạo đức Phật giáo không chỉ dứt khoát, minh bạch mà còn nhất quán và liên tục.

Có thể nói, được chính Đức Phật Thích Ca tuyên bố và minh định nội dung của đạo đức Phật giáo thật sự là những giá trị siêu thời gian và không gian, và nó trở thành khuôn mẫu ứng xử tốt đẹp nhất của con người, không kể là thời đại nào hay ở châu lục nào.

Vì thế mà Albert Schweitzer khẳng định: “Đức Phật đã sáng tạo ra một nền đạo đức nội tâm hoàn thiện nhất”, và “trong lĩnh vực này, Đức Phật đã nói lên những chân lý đạo đức có giá trị bất hủ, đã phát triển nền đạo đức không phải của đất nước Ấn Độ mà là của cả nhân loại. Đức Phật là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại nhất, kỳ tài nhất mà thế giới có được”.

Ba là: Đạo đức Phật giáo dựa trên quy luật nhân quả nghiệp báo.

Đây là một quy luật có giá trị khách quan nhất, công bằng nhất, quy luật nhân quả nghiệp báo đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với cá nhân, cũng như đối với cộng đồng và xã hội.

Theo Phật dạy, nghiệp là hành động. Nghiệp báo là kết quả hay là quả báo của hành động. Quả báo đó tương ứng với hành động tức nghiệp tạo ra nó. Ca dao tục ngữ Việt Nam đã đúc kết quy luật đó thành những câu như “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt bão”. Đó là quy luật mà lương tri mọi người đều chấp nhận.

Đạo Phật xem quy luật này như là cái chìa khóa, giúp lý giải tất cả mọi sự vật và hiện tượng diễn biến trong tự nhiên và xã hội.

Đạo Phật bác bỏ Thần ý luận, cũng như Ngẫu nhiên luận. Nếu mọi diễn biến trong xã hội đều do ý của thần linh hay của đấng sáng tạo sắp xếp sẵn rồi, thì mọi cố gắng sống đạo đức của người đều là vô ích.

Đối với Ngẫu nhiên luận cũng vậy, nếu mọi diễn biến trong xã hội đều xảy ra một cách ngẫu nhiên, không có quy luật gì cả, thì sống đạo đức mà làm gì?

Định mệnh luận và Túc mệnh luận, tuy không phải là Thần ý luận, nhưng kết quả đối với hành động đạo đức của con người, cũng mang một ý nghĩa tiêu cực như thế.

Nếu mọi diễn biến xảy đến cho xã hội và cá nhân đều do định mệnh, hay là do quá khứ quyết định và an bài, thì mọi cố gắng của con người trong hiện tại đều là bất lực và vô ích. Con người chỉ còn biết an phận và chịu đựng.

Đọc các vở kịch thơ của Homère thời Hy Lạp cổ đại, chúng ta thường gặp khái niệm số mệnh hay số phận. Đó là một giải thích rất tiêu cực đối với mọi diễn biến của cuộc sống cá nhân và xã hội.

Đạo Phật, trái lại tuyên bố “Con người là chủ nhân của nghiệp, đồng thời con người cũng là thừa tự của nghiệp”, nghĩa là chính con người hành động bằng ý chí tự do của mình, và con người phải chịu hậu quả của hành động của mình. Con người tuy là thừa tự của nghiệp nhưng quyết không phải là nô lệ của nghiệp.

Với một nỗ lực đạo đức tối đa trong hiện tại người ta hoàn toàn có thể chuyển nghiệp quá khứ, hạn chế nghiệp quá khứ, thậm chí có thể xóa bỏ nó chuyển thành nghiệp thiện, nghiệp lành.

Cũng như một người, do nghiệp nhân tạo ra trong đời quá khứ, phải sanh ra với một thân thể gầy yếu, thế nhưng, người đó với một cố gắng liên tục và tối đa rèn luyện thân thể, hoàn toàn có thể trở thành khỏe mạnh, thậm chí trở thành một lực sĩ hay võ sĩ.

Đạo Phật bao giờ cũng khẳng định khả năng của con người là vô tận, nếu con nguời có ý chí phấn đấu, bản thân mình cũng như hoàn cảnh mình đều có thể cải tạo được theo hướng tiến bộ, nếu người thật sự muốn và cố gắng.

Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.

Bởi vì, căn cứ theo quy luật Nhân quả Nghiệp báo của đạo Phật, tất cả mọi hành động lời nói cho đến mỗi ý nghĩ của chúng ta, đều tác động đến bản thân chúng ta trong hiện tại và tương lai, đồng thời cũng tác động đến xã hội, tạo ra cái mà đạo Phật gọi là biệt nghiệp, đối với mỗi cá nhân và tạo ra cộng nghiệp đối với cộng đồng và xã hội.

Nói cộng đồng ở đây là các cộng đồng nhỏ và lớn, trong đó mỗi con người chúng ta sống và hoạt động như gia đình, tập thể cơ quan, ngành nghề và quốc gia xã hội.

Sống có ý thức, với đầy đủ trách nhiệm của mình tức là nhận chân thật rõ, không chút mơ màng là mỗi việc làm, mỗi lời nói, mỗi ý nghĩ của chúng ta đều có tác động ít hay nhiều đến bản thân mình đã đành (biệt nghiệp), mà còn đến người khác nữa, đến môi trường sống chung quanh chúng ta (cộng nghiệp).

Cương vị càng cao, quyền lực càng lớn, thì tầm cỡ ảnh hưởng của mỗi việc làm chúng ta cũng rộng lớn theo, chứ không chỉ hạn chế trong phạm vi gia đình, bạn bè thân thuộc.

Bốn là: Những nguyên lý đạo đức Phật giáo có ý nghĩa thực tiễn, sống động.

Mỗi người phải biểu hiện thường xuyên bằng những hành động đạo đức, lời nói đạo đức cho tới ý nghĩ đạo đức, trước hết là của tất cả Tăng, Ni, Phật tử. Nhờ vậy, chúng ta tỏa sáng cho đời để cuộc đời sáng đẹp hơn lên.

Như thế, đạo Phật có mặt trong đời sống không chỉ diễn bày qua chùa chiền, tượng Phật, kinh sách, các nghi lễ cầu an, mà trước hết là bằng nếp sống đạo đức của Tăng, Ni, Phật tử, bằng những quan hệ ứng xử mẫu mực của mọi người với nhau trong xã hội.

Khi mỗi người đã nhận chân ra đặc trưng của đạo đức Phật giáo là gì, thì chắc chắn rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với bất cứ ai thực hành theo nếp sống này.

3. Tóm lại: Đạo đức Phật giáo là một thành tựu văn hoá, văn minh chung của nhân loại. So với những truyền thống đạo đức khác (như Nho giáo, Đạo thiên chúa, Đạo Hồi…) thì đạo đức Phật giáo có nhiều điểm riêng biệt, độc đáo.

Nghiên cứu đạo đức Phật giáo và tìm cách khai thác những hạt nhân hợp lý trong đó, kết hợp với các truyền thống đạo đức khác sẽ giúp ta xây dựng một xã hội tốt đẹp, hạnh phúc hơn trong tương lai.

Tài liệu tham khảo

[01] – Hoàng Tâm Xuyên (Chủ biên): Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
[02] – Tâm Thiện: “Tôn giáo và giá trị đích thực” trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, (Chương trình Phật học hàm thụ, Tập 2), Nxb Hồng Đức, 2013.
[03] – Nguyễn Như Ý (Chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, 1999.
[04] – Thích Chân Quang: Tâm lý đạo đức, (Quyển số 1, Tái bản lần thứ hai, có sửa chữa bổ sung), Nxb Tôn giáo, 2006.
[05] – Damien Keown: Đạo đức học Phật giáo, Nxb Tri thức, 2013.
[06] – Minh Hạnh Đức: “Đạo đức Phật giáo”, in trong Đạo Phật ngày nay, Tập 46 (10-2014), Nxb Phương Đông.
[07] – Thu Giang Nguyễn Duy Cần: Phật học tinh hoa (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Trẻ, 2014.
[08] – Nguyễn Duy Hinh: Một số bài viết về Tôn giáo học, Nxb Khoa học xã hội, 2007.

TS Bùi Hồng Vạn
Trường Đại học Thương mại (TMU)

Leave a Reply

Your email address will not be published.