1. Giáo dục “truyền thống cách mạng” cho thế hệ trẻ và cho mọi người dân hôm nay là điều hết sức cần thiết. Nếu không, tiếp theo những di sản, di tích lịch sử ngàn xưa của dân tộc vừa bị phá huỷ sẽ là những di sản, di tích lịch sử của thời cách mạng hiện đại cũng dễ dàng chịu chung số phận như thế trong tương lai!
Đảng ta, người kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc luôn quan tâm và khẳng định rằng: “Cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước đi lên”; “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước… chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên của chủ nghĩa xã hội”[2].
Thấm nhuần tinh thần trên, Bộ môn Lịch sử Đảng, trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội, từ năm học 1990-1991 đã đề xuất nghiên cứu đề tài khoa học: “Giáo dục truyền thống cách mạng cho sinh viên thông qua môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở trường Đại học Thương nghiệp Hà Nội”.
Đề tài này triển khai trong nhiều năm, trong giai đoạn đầu, một phần nội dung được triển khai nghiên cứu là: Tìm hiểu khái niệm “truyền thống cách mạng” và những biểu hiện của nó trong Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đã có những buổi thảo luận ở Bộ môn về hai nội dung này; nhưng vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong quan niệm chung của các thành viên tham gia, nhất là trong việc hiểu khái niệm “truyền thống cách mạng”. Bài này được tác giả viết ra nhằm nêu lên suy nghĩ ban đầu đóng góp vào cuộc thảo luận về cách hiểu khái niệm “truyền thống cách mạng”.
2. Rõ ràng để hiểu khái niệm “truyền thống cách mạng”, chúng ta phải bắt đầu từ việc hiểu khái niệm “truyền thống”. Bởi lẽ hai khái niệm này có mối quan hệ với nhau. Nếu xét theo giác độ ngoại diên của khái niệm thì khái niệm “truyền thống cách mạng” là một lớp (sự vật) cấu tạo nên khái niệm “truyền thống”. Điều đó có nghĩa là: “truyền thống cách mạng” là một “khái niệm hẹp” và là “khái niệm bộ phận” của “khái niệm rộng” – “truyền thống”.
Vậy truyền thống là gì?
Đến nay đã có nhiều người giải thích, nêu quan niệm về khái niệm này nhưng dường như chưa có ai đưa ra được một định nghĩa “hoàn hảo” về nó. Xin dẫn ra đây một số quan niệm về khái niệm “truyền thống”:
1) Theo “Từ điển học sinh”, do Nxb Giáo dục ấn hành năm 1971, ở trang 629 giải thích: “Truyền thống. Đức tính tốt đẹp, điều đặc sắc truyền từ đời này sang đời khác”;
2) Còn theo “Từ điển tiếng Việt” do Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1977 thì, “Truyền thống – đức tính, tập quán, tư tưởng, lối sống… được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” (trang 812);
3) Trong cuốn sách “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1980, tác giả là giáo sư Trần Văn Giàu đã giải thích rằng: “Truyền thống là những đức tính, hay những thói tục kéo dài qua nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện còn nhiều tác dụng (tích cực hoặc tiêu cực)”, và “Giá trị truyền thống là chỉ những cái tốt thôi” (trang 50).
4) Trong cuốn “Nghi lễ xã hội chủ nghĩa”, do Nxb Ki-ép, xuất bản năm 1986 lại đưa ra định nghĩa:
“Truyền thống (tiếng Latinh là Traditio – sự truyền đạt, tường thuật). Đó là tất cả những gì được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, được mọi người thừa nhận, được thử thách bằng những kinh nghiệm đã qua, được công nhận một cách tất yếu để bảo đảm sự tồn tại và phát triển tiếp tục của cá thể, tập thể, giai cấp, quốc gia và xã hội. Mục đích của truyền thống là giữ vững, tái tạo cho thế hệ mới phương thức hoạt động của cuộc sống, hình thức tư duy và đạo đức. Khái niệm truyền thống được dùng như một cái tên chung cho những giá trị mà người ta thừa nhận trong chất lượng của di sản” (trang 86).
5) Giáo sư Tương Lai trong cuốn: “Những đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Bungari”, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1987 lại quan niệm:
“Truyền thống là sự lắng đọng tự nhiên của dòng sông lịch sử, mà lịch sử thì luôn luôn là một chuỗi của những giai đoạn tạm thời trong sự phát triển vô cùng tận từ thấp đến cao. Truyền thống chính là sự khẳng định về cái đã có như là một kết quả về mặt thực tế cũng như về mặt tâm lý. Dòng sông lịch sử không ngừng chuyển động, lớp phù sa mới bồi đắp làm màu mỡ mãi lên những gì đã có và đang có (…), là cái truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, truyền thống được mỗi thời đại thừa nhận và bảo vệ.
Như vậy có nghĩa là, giá trị truyền thống còn là giá trị khi điều kiện xã hội của giai đoạn lịch sử mới vẫn còn đủ cho những giá trị đó tồn tại, những giá trị ấy vẫn còn đáp ứng được nhu cầu của sự vận động và phát triển của giai đoạn mới. Một khi mà điều kiện xã hội và nhu cầu của giai đoạn lịch sử mới không còn thích ứng với những giá trị cũ nữa, thì truyền thống cũng không còn là truyền thống nữa, tính tích cực của truyền thống không còn nữa, nó dễ trở thành một gánh nặng đối với thế hệ hiện tại” (trang 191-194).
6) Giáo sư Vũ Khiêu trong cuốn “Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng văn hoá”, Nxb Khoa học xã hội xuất bản năm 1987 có quan niệm:
“Truyền thống là sự lắp lại những suy nghĩ, những cảm xúc, những hành vi của một tập đoàn xã hội, của một con người hay của một dân tộc. Truyền thống giúp cho con người giữ lại những thành quả của quá khứ để không phải làm lại từ đầu. Truyền thống vì thế là bậc thang để nhân loại tiến lên phía trước.
Tuy nhiên, truyền thống là một đồng tiền hai mặt: Nó có thể rất tích cực, mà cũng có thể rất bảo thủ. Bởi cái phản ánh bao giờ cũng chậm hơn cái được phản ánh, nên truyền thống bao giờ cũng xuất hiện và biến đổi chậm hơn những điều kiện xã hội sản sinh ra nó. Truyền thống lắm khi như con hải cẩu đã bị bắt nhốt trong chuồng, mà vẫn cứ tiếp tục làm động tác đắp đê” (trang 220).
7) Giáo sư Phan Huy Lê, trong đợt tập huấn cho cán bộ giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) giải thích:
“Truyền thống không phải là tự nhiên sinh ra và cố định, mà là sản phẩm của lịch sử, của cuộc sống trên nhiều mặt; song có tính ổn định tương đối và có tính kế thừa… Truyền thống được hình thành, tồn tại dựa trên cơ sở là toàn bộ tồn tại khách quan của xã hội, trong đó cơ sở quan trọng nhất là sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội”…
3. Các kiến giải về truyền thống trên đây cho ta thấy sự phong phú trong tư duy khoa học. Mỗi một tác giả đều xuất phát từ giác độ nghề nghiệp của mình để nhìn nhận và phát biểu về truyền thống. Tuy nhiên, chưa có cách giải thích nào được xem là hoàn hảo!
Từ cơ sở nhận thức trên, chúng ta có thể xây dựng một quan niệm về truyền thống phù hợp với với phương hướng nghiên cứu đề tài.
Theo lý luận của Lô gích học, để định nghĩa một khái niệm, người ta phải tiến hành hai thao tác sau: Thứ nhất, phân biệt sự vật cần định nghĩa với các sự vật khác gần gũi, tiếp cận với nó. Thứ hai, phải vạch rõ nội dung – những dấu hiệu bản chất – của sự vật cần định nghĩa[3].
Trong khi thực hiện hai thao tác trên ta phải tuân thủ 3 quy tắc sau (để tránh những sai lầm trong thao tác lô gích) là:
“1) Định nghĩa phải cân đối, tức là ngoại diên của khái niệm được định nghĩa phải bằng với ngoại diên của khái niệm định nghĩa;
2) Định nghĩa không được luẩn quẩn;
3) Các định nghĩa phải tuỳ theo khả năng không được là những định nghĩa phủ định”[4].
Vận dụng lý luận vừa nêu, kết hợp với những quan niệm trên của các nhà nghiên cứu đi trước và với suy nghĩ của bản thân, tôi xin đề xuất định nghĩa sau đây về khái niệm “truyền thống”:
Truyền thống là một khái niệm của khoa học lịch sử, thuộc phạm trù ý thức xã hội. Khái niệm này được dùng để chỉ (hay phản ánh) những hiện tượng được phát sinh trong lịch sử và được di truyền (hay được truyền lại) qua nhiều thế hệ (con người) thông qua con đường văn hoá. Những hiện tượng này hiện còn phát huy tác dụng tích cực hoặc tiêu cực.
Với quan niệm như vậy, tôi hy vọng khái niệm “truyền thống” sẽ không bị hiểu lẫn lộn với một số khái niệm gần gũi với nó như: “Truyền thống tốt”, “truyền thống xấu”, “giá trị truyền thống”, “di sản”, “quá khứ”, “phong tục”, “tập quán”, v.v… mà chúng ta thường gặp trong sinh hoạt học thuật và trong cuộc sống hàng ngày.
Từ định nghĩa khái niệm “truyền thống” nêu trên, chúng ta có thể xây dựng cách hiểu về khái niệm “truyền thống cách mạng”.
Cũng như khái niệm truyền thống và một số khái niệm khác gần gũi với nó như: “truyền thống dân tộc”, “truyền thống yêu nước”, “truyền thống đoàn kết”… khái niệm “truyền thống cách mạng” được sử dụng rất phổ biến trên sách báo, các kênh truyền thông.
Nhưng tôi chưa gặp tài liệu nào giải thích khái niệm này theo tinh thần một quan niệm, một định nghĩa khoa học. Vì thế, để có công cụ phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu đề tài, tôi xin nêu quan niệm (hay cách hiểu) của mình về khái niệm này.
Nếu chúng ta quan niệm “truyền thống cách mạng” là một khái niệm nhỏ thuộc về khái niệm lớn là khái niệm “truyền thống” thì ta có thể phát biểu rằng:
“Truyền thống cách mạng” là một loại truyền thống được hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với cuộc cách mạng xã hội, do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ở Việt Nam, “truyền thống cách mạng” được hình thành, tồn tại và phát triển gắn với cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân Việt Nam, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Như thế, truyền thống yêu nước, truyền thống dân tộc, truyền thống đoàn kết… đã có từ lâu; nhưng truyền thống cách mạng thì mới chỉ phát sinh từ khi xuất hiện sự lãnh đạo của Đảng ta.
Theo tinh thần như vậy, “truyền thống cách mạng” sẽ có các biểu hiện cụ thể là:
Những mục tiêu, lý tưởng mà Đảng đã đề ra; những quan điểm về phương pháp cách mạng; về người lãnh đạo; những nhân tố quyết định thắng lợi và hệ tư tưởng chỉ đạo quá trình cách mạng; v.v…
Như vậy, có thể nói, “truyền thống cách mạng” có nhiều biểu hiện cụ thể trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta chỉ cần nắm vững nội hàm của khái niệm “truyền thống” và khái niệm “truyền thống cách mạng” là có thể chỉ ra được những biểu hiện này.
[1] – Bài đăng tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số tháng 3-1992.
[2] – Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 5 và tr. 10.
[3] – Xem Đ.P. Gorki: Lô gích học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1974, tr. 50.
[4] – Đ.P. Gorki: Lô gích học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1974, tr. 56 và 59.
BÙI HỒNG VẠN